Các thể thơ Việt Nam nổi tiếng, phổ biến và hữu dụng nhất

Các thể thơ Việt Nam, thể thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đường luật, thơ bốn chữ, thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ và thể thơ hiện đại.

Từ lâu thơ trở thành một thứ gì đó không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của ông cha ta. Thơ giúp tinh thần phấn chấn giúp chúng ta trở nên yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Chính vì thế thể loại văn học này đã và đang được lưu truyền rất tốt cho đến ngày nay. Theo đó, các thể thơ Việt Nam mà chúng ta thường hay gặp nhất là gì? Tại nội dung bài viết sau sẽ giúp bạn tìm hiểu cụ thể và chi tiết nhé!

cac-the-tho-viet-nam.jpg

Các thể thơ Việt Nam

Tìm hiểu các thể thơ Việt Nam thường gặp nhất

Thơ ca – là những thứ không thể thiếu trong cuộc sống của ông cha ta. Thơ đã trở thành một đứa con tinh thần quan trọng trong cuộc sống của người Việt Nam. Theo đó, các thể thơ Việt Nam cũng được đưa vào chương trình Ngữ Văn tại các cấp học. Chúng đã được lồng ghép vào các chương trình giảng dạy một cách tinh tế, khéo léo. 

Điều này đã giúp cho các em học sinh tiếp cận một cách dễ dàng và đặc biệt là dễ hiểu nhất. Nhưng đâu mới là thể thơ được sử dụng phổ biến nhất, cách gieo vần, quy luật gieo vần như thế nào? Tất cả sẽ giúp bạn làm rõ ngay sau đây.

Thể thơ lục bát – thể thơ lâu đời nhất 

Khi nhắc đến các thể thơ Việt Nam thường gặp thì chúng ta không thể bỏ qua thể thơ lục bát. Đây là một trong những thể thơ lâu đời nhất của văn học Việt Nam. Loại thơ này sở hữu cho mình nét đặc trưng rất riêng. Đó là cặp thơ có bao gồm một câu thơ 6 chữ và một câu thơ 8 chữ. 

Chúng được sắp xếp một cách nối tiếp và đan xen lẫn nhau. Thông thường ở câu lục sẽ được xuất hiện ở phần mở đầu và kết bài sử dụng câu bát. Ở mỗi một bài thơ lục bát sẽ không giới hạn số lượng câu chữ. Thơ lục bát có xuất hiện nhiều nhất là ở các bài ca dao, đồng ca hay lời hát mẹ ru. 

Luật thơ lục bát bằng trắc ở trong thể lục bát sẽ được thể hiện như sau:

Cách gieo vần của thể thơ lục bát được xuất hiện vô cùng linh hoạt. Chúng ta có thể gieo vần bằng tiếng cuối của câu lục và tiếng cuối này. Ở câu này sẽ hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu bát đã được nối tiếp. Tiếng cuối của câu bát này lại hiệp với tiếng cuối câu lục tiếp theo,…cứ tiếp tục như vậy cho đến hết bài thơ. 

Ví dụ như: 

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thể thơ song thất lục bát – thơ truyền thống dân tộc Việt Nam 

Thơ song thất lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam tự sáng tạo nên. Đối với thể thơ này chúng ta sẽ thấy phần cấu trúc có bao gồm hai câu 7 chữ được kết hợp với một cặp lục – bát. Thơ song thất lục bát cũng không giới hạn về số lượng câu. Nên thể thơ này rất dễ sáng tác và gần gũi với người Việt Nam hơn. 

Đối với thơ song thất lục bát sẽ có những quy luật bằng – trắc, cụ thể là:

Đối với thể thơ song thất lục bát sẽ có tiếng cuối của cây bảy chữ ở trên hiệp với tiếng thứ 5 của cây bảy chữ ở dưới. Ở tiếng cuối của câu bảy chữ ở dưới lại hiệp với thứ 6 của câu lục. Phần tiếng cuối của cây lục lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu bát. Tuân thủ trình tự như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ. 

Ví dụ như: 

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

(Trích thơ Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)

Thể thơ đường luật – bắt nguồn Trung Hoa 

Đối với thơ đường luật được bắt nguồn từ Trung Quốc chúng đã được du nhập vào Việt Nam và trở thành một thể thơ quen thuộc. Ông cha ta đã có sự kế thừa nét văn hóa tinh hoa của thể thơ này. Nhưng để có nét thuần Việt hơn chúng được kết hợp với nhiều yếu tố khác nhau. 

Nếu như tính theo quy luật của thể thơ này được tuân thủ một cách nghiêm ngặt và không dễ dàng phá vỡ. Số chữ ở trong một câu và số câu trong cả bài thơ sẽ quyết định đến quy luật chính của cả bài thơ. Thông thường quy luật chính của thể thơ này là 4 câu và mỗi câu bao gồm 7 chữ. 

Ví dụ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

(Trích thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh)

Đối với thể thơ này có bao gồm 8 câu và ở mỗi câu có 7 chữ. Cấu trúc chính của thể thơ có bao gồm 2 câu mở đầu và câu 3, 4 là câu thực, câu 5 và 6 là câu luận, câu 7, 8 là câu kết. Để hiểu rõ hơn về thể thơ này bạn có thể tham khảo ví dụ sau:

Ví dụ: 

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

(Trích bài thơ Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Đây là thể thơ được nhiều tác giả áp dụng để tạo nên sự mới mẻ cho bài thơ của mình. Thông thường cấu trúc của thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt sẽ bao gồm 4 câu và mỗi câu có 5 chữ. 

Ví dụ: 

“Đoạt sóc Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu nỗ lực,

Vạn cổ thử giang san.

(Trích thơ Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)

Thể thơ bốn chữ – thơ truyền thống của Việt Nam 

Thơ bốn chữ là một trong các thể thơ Việt Nam được xuất hiện nhiều. Cấu trúc của thể thơ này bao gồm 4 chữ và không bị giới hạn về số lượng câu. 

Ở mỗi một thể thơ đều có những quy luật riêng và thơ 4 chữ cũng tương tự như vậy. Thể thơ này có luật bằng – trắc và trong thể thơ này chữ thứ 2 và chữ thứ 4 sẽ luân phiên thay đổi lẫn nhau là T – B hay B – T. 

Đối với thể thơ 4 chữ sẽ có cách gieo vần cực linh hoạt, bạn hoàn toàn có thể hiệp theo vần chéo, vần bằng, vần chân, vần lưng hay vần liền,…

Ví dụ như:

“Mùa xuân đi rồi

Nhiều hoa vắng mặt

Như chị hoa đào

Ra đi trước nhất

(Trích thơ Tế Hanh – Hoa cỏ)

Thể thơ có năm chữ 

Đối với thể thơ có năm chữ, mỗi câu thơ sẽ bao gồm có 5 chữ và không bị giới hạn bởi số lượng câu. Quy luật bằng trắc và cách gieo vần cũng tương tự đối với thơ có 4 chữ. 

Ví dụ: 

“Trên đường hành quân xa

Dừng chân bên xóm nhỏ

Tiếng gà ai nhảy ổ:

“Cục… cục tác cục ta”

Nghe xao động nắng trưa

Nghe bàn chân đỡ mỏi

Nghe gọi về tuổi thơ”

(Trích bài thơ Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

Thể thơ sáu chữ – có cách gieo vần đặc biệt 

Đối với thể thơ có 6 chữ sẽ có cách gieo vần khác với thơ 4 chữ và thơ 5 chữ. Theo đó, thơ 6 chữ ở mỗi câu sẽ có 6 chữ và cách gieo vần chéo hoặc vần ôm. 

Ví dụ: 

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

con về rợp bướm vàng bay”

(Trích thơ Quê hương – Đỗ Trung Quân)

Thể thơ bảy chữ

Thơ 7 chữ ở trong mỗi câu thơ sẽ bao gồm có 7 chữ và ở trong bài sẽ không bị khống chế về số lượng câu xuất hiện trong bài thơ. Bạn có thể tham khảo qua ví dụ sau:

Ví dụ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

(Trích thơ Tràng giang – Huy Cận)

Thể thơ Việt Nam tám chữ 

Thể thơ có 8 chữ trong bài thơ sẽ không giới hạn về số lượng câu. Tuy nhiên về quy luật bằng trắc lại có chút thay đổi so với những thể thơ khác. Tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần trắc thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 có vần bằng. Theo đó cách gieo vần ở thơ 8 chữ sẽ được quy định như sau: vần ôm, vần chéo, vần tiếp.

Ví dụ như:

“Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà

Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”

(Nguyễn Khoa Điềm – Trích thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)

Thể thơ hiện đại 

Thể thơ hiện đại hay còn được gọi là thơ tự do, đối với thể loại thơ này đã nêu rõ được cái tôi cũng như sự phá cách đối với người sáng tác. Họ tự do sáng tạo số chữ trong câu và số câu trong một khổ. Với thể thơ này sẽ không bị giới hạn bởi số lượng khổ thơ ở trong bài. Quy luật về hiệp vần bằng trắc cũng được thể hiện một cách linh hoạt và tùy thuộc vào cảm xúc của chính người viết. 

Ví dụ như: 

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

(Trích thơ Sóng – Xuân Quỳnh)

Hy vọng với sự tìm hiểu về các thể thơ Việt Nam trên đây đã giúp bạn đọc phân biệt được các thể thơ một cách đơn giản và dễ dàng hơn. Đặc biệt sẽ giúp các em học sinh thuận tiện hơn trong việc phân tích của bài thơ. Thậm chí là sáng tác những bài thơ theo lối phong cách và cảm xúc riêng của mình.

Xem thêm: Điệp ngữ là gì? Khái niệm và tác dụng của phép điệp ngữ

Thuật ngữ -