Lập dàn ý bài thơ Chiều tối (Mộ) của tác giả Hồ Chí Minh
Lập dàn ý bài thơ Chiều tối (Mộ) với bố cục rõ ràng, chi tiết mà chúng tôi đã gợi ý bên dưới và tham khảo bài phân tích bài thơ Chiều tối.
Bài thơ “Chiều tối” trong chương trình ngữ văn lớp 11 là bài thơ thể hiện rõ hồn thơ Hồ Chí Minh. Dưới đây là dàn bài và bài phân tích về bài thơ “Chiều tối”; hy vọng sẽ giúp ích cho quá trình học tập và làm bài của các bạn.

Lập dàn ý bài thơ chiều tối
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả:
- Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người Cha già kính yêu của đồng bào.
- Là người lãnh đạo và có công lao lớn nhất trong sự nghiệp giải phóng đất nước.
- Không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại, Bác còn được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
- Bác đã đi xa, nhưng những đóng góp của bác cho dân tộc nói chung và cả những tác phẩm đồ sộ để lại cho văn học Việt Nam nói riêng, vẫn còn vang đọng mãi trong lòng bao thế hệ.
Giới thiệu tác phẩm
- “Chiều tối” là tác phẩm được trích từ tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh.
- Bài thơ là tiếng nói yêu thiên nhiên, là tiếng lòng tâm trạng trước thiên nhiên của nhân vật trữ tình. Qua thiên nhiên ấy, giữa hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, tâm hồn đồng điệu của tác giả được khắc họ rõ nét. Ở đó, tâm trạng thi sĩ yêu thiên nhiên, hướng về cái đẹp và hướng sự suy nghĩ của mình về ánh sáng tương lai.
II. Thân bài
Hai câu thơ đầu:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Vân mạn mạn độ thiên không”
- Hai câu thơ đầu mở ra là khung cảnh của buổi chiều tối nên thơ, với hình ảnh của những chú chim đang dang rộng cánh bay tìm nơi trú ngụ. Là hình ảnh của những đám mây bay nhẹ nhàng về nơi cuối chân trời. Hai hình ảnh tưởng nhẹ nhàng, bình yên, nhưng lại bật lên trong lòng người đọc cũng như trong tâm hồn nhân vật trữ tình sự bâng khuâng, dạt dào cảm xúc tựa mơ, tựa thật.
- Hai câu thơ ấy là sự gợi nhắc của tác giả về không gian trời đất mênh mông, rộng lớn, là dạt dào cánh chim bay, là vô bờ nơi đám mây tìm đến. Đồng thời, khắc họa không gian nên thơ ấy, tác giả cũng khắc hoạ luôn sự yên mình mà thơ mộng nơi đây. Với cánh chim tìm chốn trú ngụ sau ngày dài làm việc, với hình bóng mây nhè nhẹ trôi, tạo cho lòng người sự thoải mái, dễ chịu.
- Không chỉ bao la, rộng lớn, yên bình và thơ mộng; không gian buổi chiều tối nơi đây còn hiện lên chút ít ánh hiu hắt, lẻ loi, khi những vạt nắng đã rời đi hết đến với cuối chân trời. Còn lại đây chỉ có tiếng gió nhẹ, và cành cây vào chiều tối xao xác.
- Nhưng cũng chính không gian thiên nhiên mênh mông ấy đã gợi nên tâm hồn của người đang dạt dào song trào của tâm trạng:
- Những cánh chim háo hức chào đón cảnh chiều, nhưng lại mang sự mệt mỏi trong sải cánh đi tìm chốn trú nghỉ sau ngày dài mệt mỏi kiếm ăn. Hình ảnh ấy vừa trái ngược, lại vừa đồng điệu với tâm hồn của nhân vật trữ tình.
- Áng mây nhẹ trôi, như lòng người trĩu nặng tĩnh mịch. Mây trôi trên bầu trời, hay lòng người đang dạt trôi giữa dòng suy nghĩ mông lung của tâm trạng đoạ đày.
- Không dừng lại ở đó, việc tác giả tả cảnh chiều tối kết hợp cùng cánh chim và mây trôi, càng làm tôn lên chiều cao, chiều sâu của bầu trời. Mà ở nơi đó, giữa hoang vu không chim không mây, bầu trời thiếu đi người bạn tâm sự, tri ân; cũng giống như lòng người lẻ loi cô đơn giữa chốn mịt mù này. Nếu cánh chim sau ngày dài tìm được chỗ trú ngụ, thì lòng người giống áng mây, dẫu giờ phút nào cũng cô đơn trong cảnh tối tăm, mịt mù của giềng xích nơi ngục tù.
- Giữa sự khắc nghiệt đó, ấy vậy mà nhân vật trữ tình không một câu than vãn, không một lời trách móc, chỉ thả tâm hồn mình hoà cùng một nhịp với thiên nhiên lúc vào chiều tối. Để rồi từ sự thả mình vào thiên nhiên yên bình nên thơ ấy, tác giả đã tạo nên những nét điểm xuyết cho thi phẩm cũng như cho tâm trạng của mình.
- Đồng thời, hai câu thơ cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, muốn hoà mình đắm chìm trong thiên nhiên của tâm hồn người chiến sĩ cách mạng.
- Hình ảnh cánh chim bay tìm chốn trú ngụ khi chiều tối, cũng là tâm trạng nhiws thường quê hương của nhân vật trữ tình. Đối với tác giả quê hương, đất nước luôn mang vẻ đẹp nhớ nhung da diết.
- Cánh chim chao liệng trên bầu trời cùng những áng mây nhẹ nhè bay, cũng là khát vọng hoà bình, là biểu tượng cho sự tự do dân tộc. Qua đó cũng thể hiện phong thái ung dung, tự tại và lạc quan yêu đời của tác giả.
Đánh giá mở rộng:
- Như vậy, hai câu thơ vừa mang nét cổ điển trong cách thủ pháp ước lệ tượng trưng, các nét chấm phá, điểm xuyết, vừa mang nét cổ đại trong phong thái ung dung tự tại, và sự vận động không ngừng của không gian, thời gian.
- Cánh chim và mây không còn là đề tài xa lạ trong lối viết của các nhà thơ. Nhưng đến với cánh chim ở thơ Bác, ta nhận thấy nhịp điệu bay cao, bay xa tìm tự do của nó. Với hình ảnh mây, ta nhận thấy sự vận động khác lạ với sự tĩnh lặng trong thơ của Lý Bạch. Những điều này tạo nên nét đẹp trong thơ Bác.
Hai câu thơ cuối
- Phiên âm:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
- Hai câu thơ cuối mở ra là bức tranh về khung cảnh sinh hoạt của con người. Là vẻ đẹp của con người hiện lên trong khung cảnh lao động hăng say.
- Nếu ở hai câu thơ đầu, cánh chim cùng mây nhẹ trôi báo hiệu cho chiều tối đến, thì ở hai câu cuối, hình ảnh con người hiện lên trong bóng tối là vẻ đẹp say mê lao động.
- Tuổi trẻ là tuổi năng nổ, nhiệt huyết nhất, và cũng là độ tuổi được Bác nhắc đến trong hai câu thơ cuối với hình ảnh cô “thiếu nữ” đang năng nổ làm những công việc thường ngày. Để rồi từ sự say mê ấy, Bác khắc họa nên hình ảnh cô thiếu nữ đầy sôi nổi, khỏe khoắn và tràn đầy nhựa sống.
- Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài, như một nét chấm phá, sưởi ấm cả khung cảnh bị bóng tối bao trùm. Hình ảnh ấy hiện lên cũng giống như niềm tin vào tương lai sáng ngời của nhân vật trữ tình.
Như vậy, hai câu thơ kết thúc với sự vận động luân hồi của không gian thời gian, cùng việc Bác sử dụng các thủ pháp ước lệ, điểm xuyết đã làm cho khung cảnh làm việc hăng say của cô thiếu nữ hiện lên rõ ràng và chân thật nhất.
III. Kết bài:
Nghệ thuật:
- Sử dụng từ hán ngữ.
- Sử dụng bút pháp ước lệ tượng trung để: lấy mây tả trăng, lấy động tả tĩnh, lấy cảnh tả lòng người bâng khuâng.
- Thủ pháp điểm xuyết: nhấn mạnh, tô điểm cho bức tranh thiên nhiên và chủ đạo là bức tranh về con người càng thêm nổi bật.
- Nét cổ điển xen lẫn với nét hiện đại.
Nội dung: Miêu tả bức tranh thiên nhiên cảnh chiều tối, khắc họa nét đẹp con người trong lao động, đơn sơ, giản dị mà đẹp, mà yêu biết bao.
Phân tích bài thơ “Chiều tối” lớp 11
Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm khắc họa thiên nhiên, qua đó thể hiện tâm thế ung dung tự tại chốn ngục tù của Hồ Chí Minh. Song qua bài thơ cũng nói lên tâm trạng của nhân vật trữ tình trước tình thế tối tăm này. Hãy cùng phân tích bài thơ “Chiều tối” nhé!
“Thời gia là nhịp điệu của vũ trụ, là nhịp sống của con người, là sự vận động và phát triển của cuộc sống. Đối với Hồ Chí Minh, một người yêu trọn cuộc sống, người bao giờ cũng nhạy cảm với bước đi của thời gian. Đọc bài thơ “Chiều tối”, trong tập “Nhật kí trong tù”, ta không những thấy được dòng cảm nhận về thời gian, mà còn cảm nhận được dòng tâm trạng của người trong: mười bốn trăng tê tái khôn cùng vẫn rạng ngời lên ở đó, một trí tuệ vĩ đại, một nhân cách xuất chúng, của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Hãy cùng cảm nhận vẻ đẹp của Người trong bức tranh “Chiều tối”.
Hồ Chí Minh (19/05/1890-2/9/1969). “Người là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới. Là người Việt Nam đẹp nhất trong những người Việt Nam” (Phạm Văn Đồng). Người vừa là một nhà thơ, vừa là một nhà văn lớn của dân tộc. Văn học đối với người là vũ khí sắc bén để đấu tranh và cổ vũ Cách mạng. Điều đó được kết tinh ở sự nghiệp văn học đa dạng và văn chính luận, thơ trữ tình,… Trong đó “Nhật kí trong tù” chính là kết tinh đẹp nhất của thơ trữ tình. Kết đọng ở đó tâm hồn lớn lao, vĩ đại, nhân sinh quan sâu sắc, xuất chúng của Hồ Chí Minh. “Nhật kí trong tù” là tập nhật kí được viết bằng thơ. Tập thơ được ra đời trong những ngày mùa thu năm 1942. Khi Người lên đường sang Trung Quốc với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập Đồng minh hội và phân bộ quốc tế phản xâm lược Việt Nam, để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ vô cớ suốt mười ba tháng đầy ải, cực khổ. Trong quá trình bị bắt giữ, tập thơ “Nhật kí trong tù” ra đời. Bài thơ “Chiều tối” là bài thơ được viết khi người chuyển lao từ Tĩnh Tây đến thiên bảo. Vào cuối thu năm 1942. Dù cảm nhận ở bất kì phương diện nào, ta vẫn thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt. Bài thơ đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.
“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homero đến Kinh thi cho tới ca dao Việt Nam. Thơ ca luôn có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời từ những vui buồn của loài người, và kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Sự mãnh liệt và quảng đại của thi ca đã thực sự tạo nên sức sống cháy bỏng trong “Chiều tối”. Hồ Chí Minh trong tư thế của một tù nhân, mang tâm hồn của một vĩ nhân đã khắc tạc ấn tượng về thiên nhiên nơi xứ người bằng ánh mắt bao luyến một cánh chim chiều. Một sự thấu hiểu trạng thái của một chòm mây cô đơn trong hai câu thơ đầu:
“Quyện điểu chi lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.”
Cảnh chiều hiện lên đối với nhân vật trữ tình đang trong tư thế cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích. Song người tù Hồ Chí Minh lại hoàn toàn để tâm hồn tự do. Trái tim người rung động trước vẻ đẹp của cảnh chiều, ở đó, chiều tối là thoi đưa ánh sáng ban ngày gần tắt hẳn, chân trời bị che khuất lấp với cây rừng và lá núi. Nên giây phút của ngày tàn, có lẽ được nhìn thấy trên đỉnh cao của bầu trời. Hình ảnh “quyện điểu” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế của cánh chim trở về rừng. Đó là tư thế mỏi mệt trong đôi cánh như muốn kéo cả ánh chiều, là tâm thế muốn lui về tổ ấm để nghỉ ngơi sau một ngày dài kiếm ăn mỏi mệt. Câu thơ đầu không có một chữ chiều nào, nhưng chỉ bằng nét chấm phá của hình ảnh cánh chim đã gợi về cả một không gian và thời gian chiều tối. Hình ảnh này là một hình ảnh ước lệ quen thuộc của thơ cổ:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn.”
Dịch thơ:
“Chim trời bay đi mất
Mây lẻ trôi một mình.”
(Lý Bạch)
Trong thơ cổ tứ tuyệt, câu thứ hai thường thể hiện hình ảnh tĩnh lặng, không vận động. Song thơ Hồ Chí Minh ngay từ câu thơ đầu tiên, đã có sự vận động hướng về phía sự sống và tương lai.
“Nếu hội họa là thơ ca không lời, thì thơ ca là bức tranh biết nói” (Platon). Có thể nói, trong bức tranh của chiều tối, sự đặc sắc của tứ thơ không chỉ dừng lại ở hình ảnh của cánh chim, mà còn ở động thái của chòm mây cô đơn:
“Cô vân mạn mạn độ thiên không.”
Hình ảnh “cô vân” vốn là một hình ảnh ước lệ trong thơ Đường, tạo nên cảm giác tĩnh lặng, u buồn, cô đơn, cô độc, cũng là một hình ảnh ẩn chưa tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không chỉ thế, cách sử dụng từ láy “mạn mạn” của tác giả: miêu tả trực tiếp động thái phân vân, lững lờ, không biết nên đi hay dừng lại của chòm mây cô đơn, riêng lẻ giữa bầu trời. Hình ảnh thơ vừa như làm tôn cao lên bầu trời, vừa như kéo màn đêm che khuất bóng chiều, vừa như gọi về cả một miền tĩnh lặng. Mà chỉ bằng một nét bút chấm phá, Hồ Chí Minh đã lột tả được trạng thái thần tình của tạo vật. Trong vẻ đẹp hoàn mỹ của bài thơ, dường như bản dịch thơ đã bỏ sót đi sự thần tình ấy, khi bỏ qua các thi ngữ: chữ “cô” trong “cô vân” và từ láy “mạn mạn”. Chỉ còn lại hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”
Như vậy, “Mộ” với hai câu thơ đầu được sử dụng bút pháp chấm phá, thi nhân đã làm hiện lên cảnh chiều đặc trưng của núi rừng Tĩnh Tây Thiên Bảo. Giáo sư Nguyễn Đức Hùng từng cho rằng: “Những buổi chiều như vậy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của Lý Bạch Tiêu Diêu, của Khuất Nguyên U Uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương”. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng: “Chiều tối” là bài thơ của Thịnh Đường. Ngay từ bức tranh thiên nhiên ở hai câu mở đầu, ta đã có thể cảm nhận được hình ảnh của thi nhân. Đó không chỉ là một tù nhân trong tư thế của một thi nhân đang hoàn toàn tự do về tâm hồn, cốt cách. Của một bậc đại nhân mang tình yêu rộng mở, lớn lao đối với thiên nhiên và con người. Đây chính là chất Thép trong thơ Người.
“Văn học đến với con người theo cách của ngọn lửa: nung đốt và sưởi ấm, thiêu huỷ và chiếu sáng” (Lê Thành Nghị). Mang sức sống của ngọn lửa bất tử, thi ca nói chung và bài thơ “Chiều tối” nói riêng đã chạm khắc trong lòng người vẻ đẹp thuần khiết mà vĩ đại của con người trong nghịch cảnh. Ở hai câu thơ cuối, Hồ Chí Minh đã khắc họa vẻ đẹp của hình tượng trung tâm bài thơ:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên, thì hai câu cuối mở ra là bức tranh của con người trong quá trình lao động. Hình tượng trung tâm trong bức tranh về con người chính là hình tượng “sơn thôn thiếu nữ”. Đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, và hạnh phúc vinh quang nhất là lao động. Ở đây, tác giả sử dụng cả hai hình ảnh, càng làm nổi bật hình tượng con người trong hoàn cảnh lao động hăng say này. Qua đó, cũng cho thấy cái nhìn tinh tế, thấu hiểu và đầy trân trọng của nhà thơ dành cho con người. Dư âm của bài thơ dồn tụ trong hình ảnh đắt giá “lô dĩ hồng”. Sắc hồng của lò than cùng sức nóng lan tỏa là hình ảnh của ánh sáng, sự ấm áp, là tiền đề của sự sống và tương lai, làm sáng lên cả bài thơ. Như vậy, hình ảnh chủ đề của bài thơ là hình tượng vừa nối tiếp hai câu thơ đầu, vừa là sự vận động mạnh mẽ, tích cực hướng về phía ánh sáng và tương lai.
“Văn học nằm ngoài định luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin). Thật vậy, bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi kho chiều muộn; đồng thời ẩn chưa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Song qua bài thơ, vẫn hiện lên ở Bác một tinh thần quên mình, của một trái tim giấu lòng yêu thương, luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất. Đó còn là hình ảnh của một con người xem trọng bản thân, giàu tình yêu thiên nhiên và tình yêu con người.
Trên đây là dàn ý và bài văn phân tích tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh. Hi vọng sẽ giúp ích cho các bạn.
Xem thêm: Nội dung, đặc sắc nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Ngữ Văn Lớp 11 -